Nỗi kinh hoàng của đại gia đình 6 mạng người chết thảm ở Thái Bình liên quan đến lời đồn phá miếu, xâm phạm nơi ở của “thần xà”
Mặc dù sự việc đại gia đình ông Trần Văn Rạng có tới 6 người bỏ mạng không rõ nguyên nhân diễn ra đã mấy năm, song mỗi khi nhắc lại, người dân quanh xã Vũ Tây (Kiến Xương, Thái Bình), đặc biệt là những người dân ở xóm 9 vẫn không hết sợ hãi. Mảnh đất rìa làng, cạnh sông Trà Lý lộng gió, một thời nên thơ, giờ cỏ bò hoang dại, tre mọc um tùm, cây cối rậm rạp đổ ngả nghiêng, chẳng có bóng người qua lại. Những ngôi nhà đổ nát, âm u, rêu mốc, từ lâu không có hơi người. Những người đã chết thì mang theo lời đồn bị “thần xà” bắt đi, những người còn sống thì trốn tịt vào Nam, bỏ xứ đi nơi khác, không dám về mảnh đất ấy nữa. Câu chuyện khủng khiếp về những cái chết được đồn đại là do “thần xà” gọi đi vẫn chìm ngập trong bức màn bí ẩn rùng rợn. Chính quyền bó tay, mấy chục nhà khoa học nổi danh thiên hạ không tìm được lời giải, các bác sĩ đầu ngành thần kinh, chống độc cũng không tìm ra thứ gì có thể giết người nhanh chóng, khủng khiếp như thế, thầy cúng, thầy bói thì đổ riệt cho nguyên nhân phá miếu, động long mạch, cướp nơi ở của “thần xà”, nên đại gia đình phải trả giá. Người chết thì đã chết, người sống vẫn chưa dám về, vì lời giải cho những cái chết bí ẩn chưa được sáng tỏ. Đào Hoa đảo chủ Phạm Dương Ngọc trở lại ngôi làng từng diễn ra những cái chết khiến cả tỉnh náo loạn, để đi tìm lời giải thực sự cho câu chuyện có lẽ là bí ẩn nhất Việt Nam này.
Kỳ 1: Phá miếu xây nhà, “thần xà báo oán”
Cả làng kinh khiếp
Từ thành phố Thái Bình, tôi cứ đi dọc bờ hữu con đê sông Trà Lý, thì đến xã Vũ Tây. Sông nước mênh mang, tre pheo rậm rạp, đu đưa trong gió. Điều tôi nhận thấy, là đình đền miếu mạo trải dọc cả trong và ngoài đê con sông. Vùng đất này quả là tâm linh nặng nề. Những người hiểu biết, mang đầu óc duy vật thì biết rằng đây là vùng đất cổ, với bề dày văn hóa sâu, nhưng những người yếu bóng vía, thì nhìn đâu cũng ra quỷ thần, ma mãnh.
Gặp mấy bà, mấy chị gánh gồng thõng thẹo trên đê, tôi dừng xe hỏi đường về xóm 9. Mấy chị chỉ nhiệt tình, rằng đi qua con điếm, có con dốc bên trái thì đi xuyên qua cánh đồng, là đến xóm 9. Mấy chị còn kéo tôi qua rặng tre, chỉ cái xóm nhỏ rậm rì cây cối nằm thoi loi giữa cánh đồng thẳng cánh cò bay. Một chị hỏi: “Nhìn chú biết người ở xa rồi. Thế chú hỏi đường về nhà ai? Xóm ấy nhỏ tẹo, nhà ai chẳng biết”. Tôi bảo: “Em tìm đường về nhà ông Trần Văn Rạng. Nhưng hỏi về nhà ông ấy thôi, chứ thực ra cả nhà ông ấy chết rồi”. Nghe đến tên ông Trần Văn Rạng, cả mấy người phụ nữ đổi sắc mặt. Vẻ sợ hãi lộ rõ trong đôi mắt họ. Một chị bảo: “Chúng tôi không biết ông ấy là ông nào đâu. Anh vào xóm đấy rồi hỏi nhé!”. Nhìn ánh mắt họ, tôi biêt họ đang sợ hãi, chứ không phải họ không biết ông Trần Văn Rạng. Câu chuyện của đại gia đình này đã từng khiến nhân dân trong vùng náo loạn, chính quyền cả tỉnh, rồi trung ương phải quan tâm sát sao, nên không thể có chuyện cư dân ở gần đó mà không biết. Quả thực, nỗi sợ hãi ấy ám ảnh cả những người dân xa lạ, thì tôi đã phần nào hiểu rằng, vì sao những người ở đại gia đình ấy liên tiếp lăn ra chết, rồi vô số những người hàng xóm, người thân liên tiếp rơi vào trạng thái thập tử nhất sinh, không kiểm soát được mình nữa.
Tìm vào đầu xóm 9, tôi tiếp tục hỏi thăm một vài người về gia cảnh nhà ông Trần Văn Rạng, tuy nhiên, tôi chỉ nhận được những cái lắc đầu từ chối. Tôi mới chỉ nhắc đến tên ông Rạng, người ta đã thay đổi sắc diện. Dường như người ta muốn quên đi cái quá khứ hãi hùng ấy, hoặc cũng có thể họ sợ câu chuyện khơi gợi lại, ám vào gia đình họ. Thế nên, tốt nhất là chẳng nói gì, chẳng nghĩ gì đến chuyện ấy nữa. Không biết làm cách nào, tôi đành hỏi đường vào nhà ông trưởng xóm 9.
Nhà ông Thành, trưởng xóm ở sát cánh đồng. Tôi đến, nhưng trong nhà chỉ có vợ ông đang chăm sóc đàn gà. Tôi giới thiệu là nhà báo, muốn tìm hiểu về chuyện chết chóc kỳ lạ xảy đến với gia đình ông Rạng. Điều lạ lùng nữa, là bà vợ ông trưởng xóm cũng tỏ ra khá sợ hãi. Bà bấm điện thoại thông báo với chồng sự việc. Rốt cục, ông trưởng xóm từ chối gặp nhà báo, vì ông không nắm được thông tin gì về sự kiện đó. Tuy nhiên, bà vợ ông trưởng xóm cung cấp cho tôi một thông tin quan trọng: “Người nắm được rõ nhất chuyện về gia đình ông Rạng chính là ông Nguyễn Văn Thung. Chồng tôi không nắm được chuyện gì đâu, nên nhà báo có hỏi cũng không có tác dụng. Nhà ông Rạng người thì chết, người bỏ đi chưa dám về. Tôi nghe nói họ phải bỏ nhà trốn miết để tránh thánh thần phạt. Tôi sẽ dẫn nhà báo đến nhà ông Thung để nhà báo hỏi chuyện nhé!”. Nói rồi, bà vợ ông trưởng xóm dẫn tôi đi vòng vèo mấy ngõ ngách. Đến cuối con ngõ, dừng lại trước cái cổng sắt khép hờ, bà bảo: “Đây là nhà ông Thung. Nhà báo vào hỏi chuyện nhé. Tôi về luôn đây”.
Vác dao ra nói chuyện
Tôi gọi cổng một lát, thì thấy một cụ ông đi ra. Cụ ông dáng người đạo mạo, mái tóc trắng phau, cặp lông mày cũng trắng như cước. Biết tôi là nhà báo, ông mời tôi vào nhà uống nước. Tôi trình bày chuyện khó hiểu ở ngôi làng này, vì sao mọi người sợ nhắc đến gia đình ông Rạng như vậy? Ngay cả ông trưởng xóm cũng hãi. Ông Thung bảo: “Không chỉ dân làng sợ, mà ngay cả tôi đây, sắp xuống lỗ rồi cũng vẫn còn sợ. Người ta sợ nhắc đến gia đình ông Rạng, nhỡ có mạo phạm gì, thánh thần nổi giận, lại tìm họ để xử, thì lại xảy ra thảm họa như chơi”. Cũng theo ông Thung, không chỉ đại gia đình ông Rạng chết bí ẩn, em gái ông chết, mà người ta còn đồn rằng, anh trưởng thôn cũng chết, vì dám uống rượu say rồi xông đến nhà ông Rạng chửi bới, chọc gậy vào mấy ông thầy cúng đang hành lễ. Dù anh trưởng thôn này chết sau khi xảy ra sự việc quái đản ấy đã mấy năm, nhưng cái chết của anh ta khá lạ lùng, nên dân làng lại đồn rằng do anh ta đã xúc phạm thần linh ở nhà ông Rạng. Chính vì lẽ đó, ông trưởng xóm mới lên thay không muốn dính dáng đến chuyện đó, cũng là điều dễ hiểu. Không hiểu suy luận của ông Rạng có đúng không, nhưng quả thực, nỗi sợ thánh thần vô hình vẫn còn bao phủ tâm trí người dân ngôi làng này như một đám mây.
Uống mấy ngụm trà nóng, hít mấy hơi dài, ông Thung mới chợt nhớ ra gì đó. Ông lật đật chạy đến giường, lật đệm lên, lôi ra con dao dài ngoằng. Đó là con dao sắc, đẹp, giống dao của đồng bào miền núi hay dùng. Ông Thung bảo: “Nói thật với anh, từ ngày đó đến giờ, tôi đi đâu, làm gì, cũng kè kè con dao này bên cạnh. Chỉ có mang theo nó, tôi mới cảm thấy vững tâm. Anh nhắc lại chuyện này, tự dưng tôi lạnh cả sống lưng nên mới nhớ ra con dao. Tôi cứ thủ con dao ở cạnh, cho an tâm”.

Người Việt ở nhiều nơi khi đi đâu xa, đều mang theo con dao và củ tỏi, với niềm tin sẽ xua đuổi ma quỷ, tà khí. Nhiều người còn đánh dấu bằng than, vết son lên trán trẻ con để ma quỷ không bắt đi. Tôi chợt nhớ đến câu chuyện bắt ma kỳ quái và đơn giản của thầy cúng Nguyễn Trung Tuấn ở Hà Nam. Cách bắt ma của anh ta đơn giản đến mức tưởng như ai cũng làm được. Nhiều người đến trung tâm áp vong của anh này, hoặc nơi khác, sau khi về, vẫn thấy vong theo, vong nhập. Khi đến gặp anh ta, anh ta chỉ nói mỗi câu là vong đi rồi, thế là chả thấy vong ma đâu nữa. Có bà, đến nhà anh Tuấn kêu rằng, cứ nửa đêm liền “thấy” cả trăm vong, ma đứng lâu nhâu trong nhà, ngoài sân. Gặp được anh Tuấn, bà ta quỳ xuống vái lạy như thánh. Chẳng cần hương khói, vàng mã, cúng bái cầu kỳ, anh bẻ cành rào đưa cho bà ta bảo: “Tôi đã yểm bùa vào que nhang này. Chị cứ cầm về đặt trên ban thờ, sẽ không có con ma nào dám bén mảng đến nữa”. Chỉ có cành rào, mà chị này chẳng thấy vong, ma nào tìm đến hành mình nữa thật. Anh Tuấn đã thử nhiều cách và đều thành công, nhưng anh lại không hiểu vì sao mình làm được như vậy. Đơn giản, vong, ma đó chỉ là ảo giác, là nỗi sợ hãi mà biến thành. Khi các bệnh nhân này gặp được thầy bắt ma cao tay, tin rằng thầy đã trừ giúp ma quỷ, họ tự tin hơn, đầu óc thanh thản, và như vậy, sẽ không thấy con ma nào nữa. Chuyện của ông cụ Thung này, với con dao kè kè bên cạnh, có lẽ cũng giống với chiếc que rào mà anh Tuấn đưa cho người đàn bà yếu bóng vía kia.
Sau khi đặt con dao trên mặt bàn, thắp mấy nén nhang trên bàn thờ, khấn vái lầm rầm vài tiếng, lấy lại bình tĩnh, ông Nguyễn Văn Thung mới bắt đầu sắp xếp lại câu chuyện kinh dị, mà ông chứng kiến từ đầu đến đuôi.
Ngôi miếu nhỏ linh thiêng
Ông Thung mang họ Nguyễn, còn đại gia đình ông Rạng, lại là họ Trần. Ông Thung không liên quan máu mủ gì với gia đình ông Rạng, nhưng lại là người nắm rõ nhất mọi chuyện, là bởi người em gái của ông, tức bà Nguyễn Thị Đào, là vợ ông Rạng, là con dâu của họ Trần. Sự việc chết chóc kinh hãi, phức tạp quá, khiến người trong họ cũng phải “bỏ tình bỏ nghĩa, cốt chạy thoát thân”, người em gái cáng đáng không xuể, nên ông thương em mà phải vào cuộc.
Anh em ông Thung, bà Đào sinh ra trong gia đình nghèo khó, lớn lên với hạt lúa, củ khoai. Bà Đào không được học hành gì nhiều, vừa tròn đôi mươi thì về làm dâu họ Trần, làm vợ ông Trần Văn Rạng, người cùng xóm, cách nhà có vài trăm bước chân. Vợ chồng ông Rạng đẻ tới 8 người con, gồm 4 trai, 4 gái. Vợ chồng chỉ làm nông nghiệp, nên con cái cũng chỉ có được miếng ăn mà lớn, chứ chẳng được học hành gì. Tuy vậy, vợ chồng ông Rạng cũng chịu khó cày cuốc, nuôi con gà, tăng gia đàn lợn, rồi lần lượt dựng vợ, gả chồng cho 8 người con. Một người con trai bỏ xứ vào Nam lập nghiệp, một người xin làm công nhân ở thành phố Thái Bình. Hai cậu con trai, gồm cả và thứ 3 ở với bố mẹ. Mấy người con gái cũng đi lấy chồng cả. Cô lấy chồng trong mãi Tây Nguyên, cô lấy chồng ở xã khác, xóm khác.
Dù con cái chỉ làm nông nghiệp, gắn bó với cây lúa, củ khoai, song do chắt chiu tích cóp, nên những người con của ông bà cũng dần ổn định cuộc sống, xây dựng, sửa sang được nhà cửa. Người con cả Trần Văn Viết được ông bà Rạng chia cho mảnh đất trước ngôi nhà ngói ông bà ở. Vợ chồng anh Viết đã dựng một ngôi nhà dù là cấp 4, song rộng rãi khang trang, tường bao quây kín. Cậu con trai thứ 3, tên là Trần Văn Út, sau khi lấy vợ vài năm, sinh con đẻ cái, tích cóp được ít tiền, đã xin bố mẹ cho ra ở riêng. Đất đai rộng rãi, nên ông bà Rạng đã cắt một mảnh rộng chừng 200 mét vuông, phía sau về bên trái ngôi nhà của ông bà cho cậu con tưởng là út ít, ai dè chỉ là thứ 3.
Có đất rồi, anh Trần Văn Út dựng tạm một ngôi nhà cấp 4 nho nhỏ, chỉ cỡ 30 mét vuông ở tạm. Ngôi nhà ngay bên bờ ao, phía trước nhà là cái miếu nho nhỏ, giống như cây hương trước nhà. Lịch sử ngôi miếu nhỏ này cũng rất sáng rõ, đó chỉ là ngôi miếu của gia đình, do thế hệ trước dựng nên.

Để hiểu rõ về ngôi miếu này, phải nắm được ngôi miếu ở phía bên kia cái ao nhà ông Rạng. Đó là ngôi miếu do các cụ nhà ông Rạng, cùng một số người dân trong làng dựng nên, gọi là miếu Thần Linh. Ngôi miếu này vốn thờ 3 mẹ con người ăn mày. Hồi năm 1945, tình trạng chết đói diễn ra khắp vùng quê lúa. Năm đó, có 3 mẹ con ăn mày lang thang đến ngôi làng này xin ăn. Dân làng cũng đói nên họ chẳng xin được gì. Bụng đói cồn cào, nên cậu con của bà ăn mày trèo lên cây sung lớn ngả ra bờ ao để hái sung ăn. Tuy nhiên, chưa hái được quả sung nào, thì cậu bé trượt chân, ngã xuống ao. Người anh thấy vậy liền nhảy xuống ao cứu em. Tuy nhiên, ao sâu nước cả, hai anh em dần dần chìm nghỉm xuống nước. Người mẹ dù đói lả, không nhấc nổi chân, nhưng thấy 2 con chìm dưới dòng nước, liền gắng sức nhảy xuống. Rốt cục, cả 3 mẹ con đã chết đuối dưới ao. Người dân trong xóm thương xót, đã vớt 3 mẹ con lên, bó chiếu chôn cất cẩn thận ngay bờ ao. Năm đói trôi qua, người dân trong làng may mắn ít người phải chết đói. Nghĩ rằng, do 3 mẹ con ăn mày phù hộ, dân làng mới không chết đói, nên đã dựng một ngôi miếu nhỏ để thờ. Gia đình ông Rạng vừa giữ vai trò chủ trì, vừa đóng góp chính xây dựng ngôi miếu. Sau này, ngôi miếu trở thành nơi tụ họp tâm linh của các hộ dân trong xóm. Ngày rằm, ngày lễ, người dân đều hương khói chu đáo tại ngôi miếu nhỏ này. Từ ngôi miếu thờ 3 mẹ con ăn mày, có lúc gọi là thờ ma đói, đã biến thành miếu thờ thần.
Gần 3 năm sau khi xây dựng ngôi miếu này, vào năm 1948, một bà trong họ Trần đau ốm liên miên mà không rõ nguyên nhân. Bà này là thầy cúng, chuyên cúng bái, xem long mạch cho người dân trong vùng. Bà bảo, do long mạch ở đất nhà mình có vấn đề, nên phải lập một ngôi miếu, rước Thần ở miếu thờ 3 mẹ con chết đói về thờ. Ngôi miếu được xây dựng khá nhỏ, đơn sơ ở rìa bờ ao, đối diện với ngôi miếu thờ 3 mẹ con chết đói. Bà còn kêu thần linh, thổ địa lên ngự ở miếu để bà hương khói ngày đêm. Hàng ngày, bà này cúng bái, hương khói cẩn trọng. Tuy nhiên, hương khói mãi mà chẳng ăn thua gì, bệnh tình bà mỗi ngày nặng thêm. Cuối cùng, bà chết một cách bí ẩn, khi đang khấn vái ở miếu. Cái chết của bà khiến gia đình và người thân càng tin vào sự linh thiêng của ngôi miếu nhỏ này. Từ đó đến nay, các thế hệ họ Trần coi ngôi miếu là chỗ dựa tâm linh, hương khói ấm cúng trong những ngày trọng đại. Người dân trong xóm cũng đến khấn vái, dâng lễ xin lộc. Điều kỳ lạ, là thi thoảng có một con rắn, không rõ là rắn gì, dài khoảng 3m, to bằng chiếc điếu cày, thường xuyên ngự trong miếu. Có lúc gặp nó nằm khoanh tròn chỗ bát hương, có lúc thấy nó nằm vắt trên miếu, có lúc lại thấy nó ở trên ngọn cây. Ai cũng nghĩ rằng thần linh đã hóa thân thành con rắn, nên không ai dám xua đuổi, hoặc bắt nó làm thịt.
Sẽ chẳng ầm ĩ, nếu ngôi miếu ấy nằm rìa mảnh đất rộng rãi của ông bà Rạng, nhưng lại nằm giữa mảnh đất mà anh Trần Văn Út được bố mẹ chia cho. Ngôi miếu nằm giữa mảnh đất thì không thể xây dựng kiểu gì cho phù hợp, hài hòa. Tuy nhiên, ngôi miếu là nơi thờ cúng, chỗ dựa tâm linh của gia đình, xóm giềng, nên anh Út không đụng đến. Anh dựng ngôi nhà nhỏ ngay trước ngôi miếu, quay mặt thẳng ra ngôi miếu. Vị trí ngôi miếu tuy không phù hợp, nhưng nó không ảnh hưởng đến cuộc sống, lối đi lại, nên anh Út cứ để nguyên. Chỉ đến một ngày, khi sinh 2 đứa con, khi ngôi nhà 30 mét vuông đã chật trội, khi vợ chồng đã tiết kiệm đủ tiền để xây dựng ngôi nhà mái bằng khang trang hơn, thì ngôi miếu mới trở nên đáng quan tâm. Mảnh đất nhỏ, nên không thể có sự lựa chọn nào khác, anh Út buộc phải đào móng dựng ngôi nhà ngay cạnh ngôi miếu và biến ngôi nhà nhỏ đang ở thành nhà bếp. Được sự đồng ý của gia đình, xóm làng, anh Út quyết định di dời ngôi miếu ra vị trí khác, ở chái ngôi nhà đang ở, sát bụi tre, cạnh bờ ao. Nói là di dời, nhưng thực ra là phá ngôi miếu cũ, xây dựng ngôi miếu mới và dời sự thờ cúng ra đó. Hôm phá miếu, gia đình cũng thuê thầy cúng làm lễ cẩn thận, nhưng không ai ngờ, sự việc xảy ra sau đó lại nghiêm trọng khủng khiếp như vậy. Súc vật liên tiếp lăn ra chết, tiếp đó là những cái chết kinh dị không ngăn nổi xảy đến với 6 thành viên trong gia đình hiền lành chân chất này.
Vung xà beng phá miếu
Hồi dựng ngôi nhà nhỏ, dù ngôi miếu nằm ở trước nhà, nhưng ở khuôn viên của vườn, không ảnh hưởng đến lối đi, sinh hoạt, nên anh Trần Văn Út không đụng chạm gì đến ngôi miếu. Đại gia đình ông Rạng đều là những người chu toàn vấn đề tâm linh, nên ngày lễ, Tết, rằm, mùng một, đều hương khói cúng bái thần linh, thổ địa. Người dân trong xóm thấy ngôi miếu linh thiêng, nên cũng đến nhang khói, cầu khấn khá đông. Vì thế, đại gia đình ông Rạng lại càng có nhiều lộc. Tuy nhiên, khi ngôi nhà cấp 4 chật chội, khi gia cảnh khấm khá, vợ chồng anh Út bàn tính xây dựng ngôi nhà mái bằng khang trang, biến ngôi nhà cấp 4 thành bếp, thì không thể để ngôi miếu ở đó nữa. Ngôi miếu này vốn thờ 3 mẹ con người ăn mày, thờ cả thần linh thổ địa, để trấn long mạch, nhưng lại có con rắn lớn thi thoảng bò về ngự ở miếu. Nghĩ là thánh thần hóa thân, nên không ai dám bắt, không dám đuổi rắn đi. Con rắn cũng hiền lành, chẳng tấn công người bao giờ. Hôm quyết định phá miếu để di dời ra chỗ khác, thầy cúng cũng đến làm lễ long trọng. Ông thầy cúng này khẳng định rằng, thần linh đã hiện thân thành con rắn và phù hộ cho gia đình, xóm làng, do đó, mọi người không được bắt rắn, xua đuổi rắn đi. Sở dĩ, lúc nhìn thấy rắn, lúc không thấy rắn đâu, là vì thần linh biến hóa thành. Khi thần hiển linh, thì hóa thành rắn, còn khi thần về trời, thì con rắn biến mất. Đó là lý do vì sao thi thoảng mọi người mới bắt gặp rắn, mà lại thường xuyên gặp vào những ngày trọng đại.
Thầy cúng làm lễ xong, mọi người vào nhà uống nước. Đúng vào buổi trưa, tiết xuân mát mẻ, nắng nhẹ, anh Trần Văn Út dùng xà beng đâm nhát đầu tiên. Mặc dù là người cứng cáp, chứ không yếu bóng vía như đàn bà, thế nhưng, anh Út cũng phải toát mồ hôi. Theo lời thầy cúng, thì anh là người xây nhà trên đất miếu, nên anh phải là người đầu tiên hạ miếu và cũng là người đầu tiên động thổ xây dựng ngôi miếu ra địa điểm mới. Thầy cúng sau khi làm lễ, đã xin âm dương và chỉ một lần tung đồng xu, đã chứng nghiệm. Việc phá miếu di chuyển ra chỗ khác, theo thầy cúng, là việc hợp lòng người và cũng hài lòng thần thánh. Bởi vì, nếu dựng nhà, ngôi miếu sẽ nằm ở ngay hiên, ở góc sân chỗ giáp nhà và bếp, như vậy người ở chẳng vui, mà thánh thần ngự ở đó cũng không đẹp đẽ gì. Mặc dù mọi điều đều đã thuận, nhưng mọi người phải động viên mãi, anh Út mới dám đâm xà beng. Khi anh Út dũng cảm phóng xà beng vào nóc miếu, ngói vỡ tung tóe, thì anh Viết, anh trai của anh Út cũng mang xẻng giúp một tay. Chưa đầy một tiếng đồng hồ, ngôi miếu nhỏ đã biến mất, thay vào đó là một đống gạch vỡ vụn.
“Quan hoàng xà” xuất hiện
Thế nhưng, ngay chiều hôm đó, sự việc kinh hoàng, như lời báo ứng khủng khiếp đã diễn ra, ngay tại địa điểm ngôi miếu này, đó là sự hiện diện của con rắn khổng lồ. Con rắn này vốn thi thoảng vẫn xuất hiện ở ngôi miếu vào những ngày trọng đại, nhưng nó chỉ ở một lát, rồi lại biến mất. Thế nhưng, hôm đó, sau khi phá miếu vài tiếng, khoảng 5 giờ chiều, con rắn to bằng ống điếu cày, cỡ cổ chân người lớn, dài khoảng 3m, treo thân lủng lẳng trên ngọn cây trứng gà. Con rắn có thân khoang đen khoang trắng nhìn rất kỳ dị, hãi hùng. Với thợ rắn bình thường, thì đây là loài hổ mang, có nọc độc khủng khiếp, cắn chết trâu bò hoặc vài mạng người. Cây trứng gà này vốn mọc cách ngôi miếu chừng 5 mét. Điều kỳ lạ là những quả trứng gà này rất to, quả nhỏ cũng bằng nắm tay, quả to bằng chiếc bát ăn cơm, thậm chí to như quả bưởi. Bình thường, đại gia đình ông Rạng, mỗi khi hái trứng gà ăn, đều đặt trên miếu hương khói, mời thần linh thưởng trước, rồi mới lấy về ăn hoặc phân phát cho mọi người, chứ không ai dám tự tiện hái trứng gà.
Hôm “thần xà” xuất hiện, chính mắt ông Nguyễn Văn Thung (anh vợ ông Rạng) cũng nhìn thấy, nhưng nghĩ đó là con rắn bình thường, rồi thấy mọi người thần thánh hóa nó lên, nên ông bực mình bỏ về. Con rắn quấn đuôi trên ngọn cây, rồi thả mình thòng lõng xuống đất. Tuy nhiên, cái đầu nó bạnh ra, nhìn mọi người bằng con mắt vằn đó. Lưỡi mãng xà màu đen, thè ra lòng thòng. Nó treo trên cây như vậy, khiến không ai dám làm gì nữa. Điều lạ là mọi người nhìn con rắn đều kinh hãi. Bản thân hai anh em Út và Viết đều là nông dân, cày sâu cuốc bẫm, rắn rết bắt hàng ngày ở cánh đồng về làm thịt, thế nhưng, với con rắn ngự ở ngôi miếu này thì lại kính cẩn, không bao giờ dám động vào. Sự việc con rắn treo mình trên cành cây, rồi nhất quyết treo lủng lẳng trong tư thế đó, khiến hai anh em và tất cả mọi người chứng kiến đều tin rằng, một điềm báo khủng khiếp sẽ xảy đến với họ.

Sau khi bàn bạc, mọi người thống nhất tạm dừng công việc, không tiếp tục nữa. Một người được phân công đi gọi ông thầy cúng lúc trưa ở xã Quốc Tuấn bên cạnh. Chừng nửa tiếng sau, ông thầy này được chở đến. Vừa nhìn thấy con rắn, ông thầy cúng trợn mắt, bủn rủn tay chân, cứng hàm không nói được gì cả. Ai nhìn cảnh đó cũng không hiểu vì sao, tưởng ông thầy cúng này bị trúng gió. Mọi người phải đỡ ông vào chỗ mát, sức dầu gió Trường Sơn cho ông. Người bóp tay, bóp chân, người day thái dương. Vài phút sau, ông thầy cúng mới tỉnh lại. Tuy nhiên, vừa sực tỉnh, thì ông chạy đến gần chỗ con rắn đang treo mình, dập đầu vái lạy. Không ai hiểu ông nói gì, nhưng đại để là cầu xin thần rắn tha mạng cho ông và tha mạng cho cả nhà mình. Vái xong, ông thắp mấy nén nhang, cắm ngay gốc cây trứng gà, rồi từ biệt gia đình. Trước khi đi, ông còn bảo: “Từ nay gia đình đừng gọi tôi nữa. Tôi chịu rồi, không đủ sức giải quyết chuyện này nữa đâu. Nếu có chuyện gì xảy ra, thì gia đình đi tìm thầy khác nhé”. Sau hôm đó, kéo dài cả năm trời, cả đại gia đình ông Rạng náo loạn vì những cái chết khủng khiếp, kỳ quặc. Gia đình đã mời hàng chục thầy cúng, thầy bói, và có nhiều lần qua nhà ông thầy cúng này, song ông nhất mực từ chối. Nghe nói, hàng ngày ông ăn chay, tụng kinh gõ mõ, sám hối những việc đã làm. Ông còn lập cả ngôi miếu và đắp hình một con rắn to tướng, có mào, miệng há to, lưỡi thòng lòng nhìn gớm ghiếc để cúng tế ngày đêm. Đồn rằng, ông nghĩ chính mình đã tiếp tay cho gia đình ông Rạng phá ngôi miếu, nơi trú ngụ của “thần xà”, nên ông rất sợ hãi. Ông dựng ngôi miếu, thờ “thần xà” là để mong “thần xà” tha tội, không bắt ông đi.
Quay lại chuyện con rắn treo mình trên cây trứng gà. Con rắn treo mình từ chiều đến khoảng 7 giờ tối, thì nó quấn mình vào thân cây, bò xuống. Con rắn bò ra phía bụi tre sát bờ ao, rồi cứ thế bò dọc bờ ao và biến mất vào một bụi cỏ lớn rậm rạp phía nhà anh Viết. Hôm sau, mọi người dậy sớm, thì không thấy con rắn xuất hiện nữa. Tuy nhiên, chưa ai dám làm gì. Nhờ ông thầy cúng kia không được, nhiều người mách ông Rạng tìm gặp ông thầy Mơ ở huyện Tiền Hải. Ông Mơ là thầy bói, thầy cúng, thầy địa lý khá nổi tiếng ở tỉnh Thái Bình. Ông này chuyên xem thế đất, thế nhà, trấn yểm long mạch, thậm chí cắm đất để xây dựng đình chùa. Với khả năng siêu phàm đó, gia đình ông Rạng tin rằng, ông Mơ sẽ có cách giúp được gia đình ông.
Khi mấy người trong gia đình ông Rạng tìm đến, ông Mơ yêu cầu vào phủ nhà ông, thắp nhang, để ông xin âm dương. Xin âm dương xong, thì ông này bảo: “Đó không phải là con rắn bình thường đâu. Đó là “quan hoàng xà” hóa thành rắn để ngự ở miếu đấy. Tôi xin âm dương thì thấy thuận rồi, gia đình cứ động thổ làm nhà đi, nhưng cần phải nhớ, là nhất định không được động vào “quan hoàng xà”. Chỉ cần đánh “quan hoàng xà” một cái, hoặc đuổi “quan hoàng xà” một lần, thì chắc chắn sẽ phải thế một mạng người. Hay ghi nhớ lời nói của tôi. Sau này, nếu có sự việc gì phức tạp, thì tôi sẽ đến tận nơi xem xét. Hiện tại, mọi người cứ thế mà làm”.
Lời ông thầy Mơ khiến mọi người an tâm, nên ông Rạng chỉ đạo mọi người động thổ xây dựng ngôi nhà cho con trai. Hôm động thổ, gia đình cũng cẩn trọng mời thầy cúng đến làm lễ rất lớn, với đủ cả lễ mặn, lễ nhạt, vàng mã hóa rừng rực cả góc sân. Thợ thuyền làm việc hăng say, và ngôi nhà mái bằng rộng rãi nhanh chóng mọc lên. Ngày lành đã chọn, việc đổ mái đã định. Thế nhưng, mấy hôm trước ngày đổ mái, thì anh Trần Văn Viết lên cơn co giật, lăn đùng ra chết. Cái chết không rõ nguyên nhân, vô cùng kinh dị, khiến mọi người liên tưởng đến chuyện “thần xà” trả thù. Tất nhiên, người anh trai qua đời, thì việc đổ mái ngôi nhà buộc phải dừng lại. Nhưng ít ai đoán trước được rằng, ngôi nhà chỉ xây được đến đó thôi, rồi dừng lại mãi mãi, để mặc cỏ mọc um tùm, vì sau cái chết của anh Trần Văn Viết, thì những cái chết tiếp theo lần lượt xảy đến với đại gia đình này, mà không một thế lực nào có thể ngăn lại được.
Thanh niên chạy tán loạn
Quay trở lại chuyện con rắn kỳ dị gắn với ngôi miếu nhỏ. Từ lần xuất hiện hôm phá miếu, đến hôm chuẩn bị đổ mái ngôi nhà, con rắn như biến đâu mất, không thấy xuất hiện nữa. Chỉ đến khi anh Viết qua đời, “quan hoàng xà” bắt đầu xuất hiện nhiều hơn. Ông Nguyễn Văn Thung nhớ lại: “Sự việc cậu Viết qua đời lẽ ra không có gì ghê gớm, vì mới chỉ có một người chết. Tuy nhiên, trước đó, gia đình đi xem bói nhiều quá, mà thầy nào cũng phán có “quan hoàng xà”, do thần linh hóa thành rắn, ngự ở ngôi miếu, nên mới hoảng loạn như vậy, gây nên ầm ĩ khủng khiếp. Sau khi cậu Viết qua đời, rồi liên tiếp nhiều người chết, hôm nào tôi cũng qua nhà ông Rạng giúp em gái trông nom, quán xuyến mọi việc. Những người trong gia đình đó đều hồn bay phách lạc, có ai dám qua nhà đó đâu. Chỉ có tôi và ông Lưu, đều cứng bóng vía lắm mới dám sang đó. Việc con rắn hiện diện nhiều người nhìn thấy, nhưng tôi và ông Lưu thấy thường xuyên nhất. Con rắn đó trú ngụ ở chỗ nhà Viết, nhưng lại hay bò sang đất nhà thằng Út, rồi quanh quẩn ở chỗ ngôi miếu đã phá”.
Vừa để phòng “ma”, lại phòng rắn, nên mỗi lần sang nhà ông Rạng, ông Thung lại kè kè con dao ở nách. Con dao dài này ông Thung thửa riêng, rất sắc lẹm, dùng để vót nan. Bình thường ông ít dùng, nhưng dạo đó, ngày nào ông cũng lôi ra mài sáng loáng. Ông mài sắc đến nỗi, đặt lưỡi dao vào chân, lướt một cái, lông rụng sạch như cạo bằng dao lam. Ông Thung không tin con rắn là “quan hoàng xà”, nhưng nghe mọi người nói vậy và thấy nó bò đi bò về mà không hãi người, khiến ông cũng hoang mang. Tuy nhiên, nếu nó tấn công ông, thì ông buộc phải vung dao chém. Đấy là phòng thủ vậy thôi. Chứ cả chục lần ông Thung sang nhà ông Rạng, thấy con rắn trườn qua ngõ, hoặc nằm phơi nắng giữa ngõ, ông Thung đều dừng lại. Ông chắp tay xin “quan hoàng xà” trườn đi, để ông qua đường. Chỉ khi nào con rắn bò đi khá xa, ông mới rón rén bước tiếp. Để tránh gặp phải rắn, ông Thung thường ăn tối từ 5 giờ chiều, để sang nhà ông Rạng khi còn nhìn rõ đường, kẻo dẫm phải rắn. Đêm ngủ ở nhà ông Rạng, thì lúc nào cũng kè kè con dao.
Sau ngày ông Rạng qua đời mấy hôm, con rắn cũng xuất hiện trong hoàn cảnh khá đặc biệt, khiến nhiều người khiếp vía. Chiều hôm đó, đám thanh niên tụ tập ngồi dưới sân, sát hiên để chơi bài. Đột nhiên “quan hoàng xà” bò từ vườn vào sân, rồi bò sát đến manh chiếu, nơi đám thanh niên ngồi chơi bài. Thấy con rắn, đám thanh niên sợ hãi bỏ chạy tán loạn. Một số thanh niên sợ xanh mắt, một số lại bàn tính tìm cách đập chết rắn. Tuy nhiên, ông Thung đã ngăn lại, không cho giết rắn. Ông yêu cầu mọi người vào trong nhà, đóng cửa lại, chờ “quan hoàng xà” đi, rồi mới được ra. Ông Thung và một số người trong gia đình đã thắp hương trên bàn thờ, khấn thần rắn tha cho mọi người tội mạo phạm. Con rắn to tướng đó nằm khoanh tròn bên chiếu phải đến 1 tiếng đồng hồ, mới ngỏng đầu bò đi. Chờ một lúc, không thấy rắn quay lại, đám thanh niên mới ra sân chơi bài tiếp.
Thợ rắn khiếp vía
Theo lời ông Nguyễn Văn Thung, hai năm trước, khi đại gia đình ông Rạng đã người qua đời mấy năm, người bỏ đi mất dạng, không dám về nữa, thì “quan hoàng xà” vẫn tiếp tục xuất hiện. Hôm đó, là ngày giỗ em gái, sau khi sắp cơm ở nhà, ông sang ngôi nhà bỏ hoang vốn là nhà em gái ông, để thắp cho em nén nhang, thì lại gặp con rắn khi nó treo mình trên cây xoài to tướng, mọc ngay sau bếp nhà ông Rạng. Thắp hương trong nhà xong, ông Thung châm tiếp mấy nén hương, ra giữa sân, rồi ông quỳ xuống vái “quan hoàng xà”. Đúng lúc đó, một anh buôn rượu ở làng cạnh đi qua, thấy ông Thung khấn vái giữa sân có vẻ lạ lùng thì rẽ vào xem xét. Khi thấy con rắn khổng lồ vắt mình trên ngọn cây, anh này bảo: “Vớ được con rắn này thì trúng quả rồi, bằng mấy nồi rượu ngon rồi”. Ông Thung bảo đó là rắn thần, nhưng anh này cười châm biếm, bảo đó là rắn hổ mang, rất có giá. Mặc ông Thung ngăn cản, anh ta cứ trèo lên cây xoài tìm cách tóm rắn. Khi anh này trèo lại gần, con rắn không hề sợ hãi bò đi, mà nó ngỏng đầu nhìn thẳng vào anh ta, lưỡi thè ra rất gớm ghiếc. Anh này sợ quá, liền tụt xuống, mặt tái mét, toát mồ hôi, run cầm cập. Anh ta chẳng nói chẳng rằng, đạp xe bỏ chạy. Thế nhưng, lúc sau, ông Thung lại thấy anh ta xuất hiện ở sân nhà ông Rạng. Anh ta bảo, nhìn con rắn to quá, không dám bắt, tuy nhiên, đi được nửa cây số, nghĩ tiếc của, nên quay lại nhất định bắt con rắn đem bán. Lần này, lấy quyết tâm, anh ta quyết định bắt bằng được con rắn. Thế nhưng, anh ta vừa đi đến gốc cây, bỗng khụy xuống, không đứng nổi lên nữa, người run bần bật. Ông Thung phải dìu anh này vào trong nhà, để anh ta tỉnh táo, bình tĩnh lại. Anh này kể rằng, ngoài nghề nấu rượu, đêm nào anh ta cũng đi soi rắn, bắt ếch. Rắn to, rắn nhỏ, độc xà, anh cũng đều đã bắt được. Thậm chí, anh còn bắt rắn độc theo đơn đặt hàng. Hễ ai đặt anh bắt rắn gì, nặng bao nhiêu để ngâm rượu, hay làm thịt, anh đều tìm được cho. Tuy nhiên, không hiểu vì sao, nhìn thấy con rắn này, anh bỗng bủn rủn tay chân, không làm chủ được mình nữa. Lúc hoàn hồn, ra sân, thì con rắn đã biến mất khỏi cây xoài. Anh này đạp xe hộc tốc bỏ đi, không bao giờ dám quay lại nữa.
Một điều khá lạ lùng, là sự xuất hiện của con rắn với tần suất rất cao, nhưng có một dạo, thợ rắn tìm đến, lại không tìm thấy nơi trú ngụ của nó. Không chỉ ông Thung, ông Lưu (anh ông Rạng), mà anh Đức, anh Hà, là hàng xóm với gia đình ông Rạng cũng thường xuyên nhìn thấy con rắn. Đường đi của nó ông Thung cũng nắm rõ. Nó bò từ phía bờ bụi nhà anh Viết, sang sân vườn nhà ông Rạng và anh Út. Tuy nhiên, nó trú ngụ ở đâu, đào hang chỗ nào thì ông Thung chịu. Có một dạo, cách đây độ 3 năm, mấy thợ rắn ở nơi khác nghe tin, đã tìm đến săn lùng. Đám thợ này vạch từng bụi cỏ, đống gạch, bờ ao, nhưng tuyệt nhiên không tìm thấy hang rắn, hoặc nơi rắn ở, cũng không thấy rắn lột xác ở chỗ nào. Có ông thợ đào bới liên tục 3 ngày mà không thấy con rắn đâu. Thế nhưng, vài hôm sau, ông Thung lại gặp nó xuất hiện ở vườn nhà ông Rạng.
(Còn nữa)
Đào Hoa đảo chủ PHẠM DƯƠNG NGỌC
